LTD Bài 18. Ngại “đi xưng tội”

by snHuyenBang

18. Ngại “đi xưng tội”

Rất nhiều người trong chúng ta ngại “đi xưng tội” vì suy ra mình có “làm” tội gì đâu mà phải đi xưng. Nhưng khi chúng ta nói mình không có tội, thì như chúng ta cho là mình hoàn hảo, có nghĩa là chúng ta tự tại và ngang hàng với Chúa. Chỉ cần nói như thế thôi thì cũng đã là một tội rồi, và lại là tội lớn nhất như ông Ađam và bà Evà đã phạm. 

Chúa không phải như loài người chúng ta để mà không chấp nhận việc ai khác tự cho bằng mình nên ra tay phạt người nào dám nói như thế. Nhưng với một người mà nghĩ như vậy thì Chúa không thể nào đổ tình thương vào lòng hoặc ra tay cứu giúp người ấy được. Vì khi cho là mình không phạm tội, người ấy sẽ không cảm thấy cần đến Chúa và kêu cầu Ngườivà như thế là họ tự tách mình ra khỏi Chúa. Lúc đóvìphải tôn trọng tự do mà Chúa đã ban cho họ, Chúa có muốn làm gì cho họ thì cũng không thể làm được. Và đó mới là điều bất hạnh lớn nhất cho họ, do họ tự chuốc lấy và thành hình phạt cho họ, chứ không phải là Chúa phạt họ. 

Đã gọi là bí tích thì bí tích Hòa giải chắc chắn phải đem lại ơn Chúa cho mình, nên nếu chúng ta từ chối bí tích Hòa giải thì cũng như chúng ta từ chối ơn Chúa. Chúng ta cũng cần phải có cảm thức về Thiên Chúa thì mới ý thức được tội của mình. Do đó, tùy ở mức độ kết hiệp với Chúa mà chúng ta sẽ thấy được nhiều hay ít những khiếm khuyết về yêu thương của mình. Khi lấy tiêu chuẩn yêu thương để xét mình thì chúng ta sẽ thấy rõ được tội của mình hơn là xét mình theo “hành vi” phạm tội. Vì nhiều khi chính là không làm hay nói gì mới là tội, chẳng hạn như mình không làm hay nói vì sợ phiền hà đến mình, vì muốn yên thân, vì sợ người khác nghĩ xấu cho mình, sợ người ta cười chê hay ghét mình, v.v., nói chung là chúng ta chỉ nghĩ đến mình trước tiên, chứ không nghĩ gì đến tha nhân cùng lợi ích của họ. 

Vậy, tội là mỗi lần chúng ta phạm đến tình yêu hay từ chối tình yêu đối với Chúa, đối với tha nhân và cả đối với chính mình, ở trạng thái chủ động hay thụ động. Và nếu chúng ta từ chối tình yêu là vì con tim của chúng ta trở nên chai đá và khép kín. Vì vậy, đối với người đã có với Chúa một tương quan khá mật thiết, tuy xét là mình không làm hành vi nào gây nên tội, nhưng lòng mình cũng cảm thấy nặng nề vì đang mang một “quả tim bằng đá” (Êdêkien 36,26). Bí tích Hòa giải giúp chúng ta mở lòng ra để Chúa đang đứng ngoài chờ đợi và gõ cửa có thể đến mà biến đổi “quả tim bằng đá” của chúng ta thành “quả tim bằng thịt”, nhờ quyền năng của Thánh Thần, Đấng vẫn ngự trong lòng chúng ta, nhưng lại bị giam hãm trong bức tường bằng đá của cõi lòng chúng ta. 

Một điểm nữa cũng có thể làm cho một số người ngại “đi xưng tội”, đó là phải đi gặp một linh mục mà họ nghĩ là tư cách cũng còn “thua” mình. Thật ra, không ai “xứng đáng” hơn ai trước mặt Chúa, nhưng Chúa cần linh mục để nhân danh Người mà ban ơn cho chúng ta qua bí tích Hòa giải hầu phục hồi lại phẩm giá cho chúng ta khiến chúng ta tìm lại được niềm vui làm con cái Chúa. Vậy, để hòa giải với Chúa (chứ không phải với linh mục), đức tin của chúng ta là chính chứ không phải cá nhân của linh mục. Chỉ khi chúng ta tin là Chúa can thiệp qua linh mục thì Chúa mới can thiệp được, bằng không, Chúa cũng tôn trọng tự do của chúng ta và không thể cưỡng ép chúng ta để ban ơn cho chúng ta được

Mong sao chúng ta nhận ra được bí tích Hòa giải là một ơn Chúa ban để nâng đỡ chúng ta trên con đường trần thế và không ngại đi lãnh nhận bí tích này nữa nhé!

Bài 18 này được trích ra từ sách của chị Lưu Thùy Diệp.

Những Bài Liên Quan