Bối cảnh ban đầu :
Cứ theo sách ghi lại : vào năm 1533, một thừa sai Bồ đào Nha tên là ‘I-ni-Khu’ đã đến giảng đạo Chúa tại làng Ninh Cường, thuộc tỉnh Nam Định ngày nay.
Thế rồi người tín hữu tiên khởi được lãnh bí tích rửa tội có tên là Đỗ hưng Viễn, quê gốc làng Bồng Trung, Thanh Hóa. Người này lúc đó đang theo giúp các cha thừa sai bên Ma Cao, sau khi từ quan về hưu. Lúc đó là đời vua Lê anh Tôn.(Tên của ông đã từng được đặt cho một đường phố Saigon, phường 12, quận Tân Bình).
Trong triều đình nhà Lê, vào năm 1588, có công chúa là chị ruột vua Lê thế Tôn có dịp tiếp xúc với cha dòng Tên Ordonez Cevallos, thấy ngài tài giỏi đẹp trai nên ngỏ ý muốn cưới, nhưng sau khi nghe cha cắt nghĩa về đời độc thân Linh Mục, bà đã xin theo đạo lấy tên thánh là Maria, gọi là ‘Mai Hoa Công Chúa’.Bà này đã giúp đỡ các cha trong việc truyền giáo rất nhiều. Bà còn quyết định ở vậy và thành lập một ‘tu hội’ tiên khởi.
Cộng tác trực tiếp hơn với các giáo sĩ ngoại quốc là các ‘thày giảng’được tuần tự thiết lập từ thời đầu. Vị tiên phong bị bắt và tử đạo là thày An-rê ‘Phú Yên’, năm 1644.
Cha Đắc Lộ xin được thủ cấp thày An Rê mang qua Rô Ma, rồi vận động tòa thánh cắt cử 2 giám mục tiên khởi coi sóc giáo hội Việt Nam, là Đức cha Lambert de la Motte (đàng trong), và Francois Palu (đàng ngoài), vào năm 1659.
Năm 1665, một chủng viện dành riêng cho các chủng sinh Việt Nam được lập ra tại Penang, và về sau chuyển về Hà Tiên.
Đặc biệt quan trọng là 2 linh mục người Việt tiên khởi đã được thụ phong năm 1668 là cha Giu-se Trang và cha Lu-ca Bền (đàng trong), rồi cha Biển-Đức Hiền và cha Gio-An Huệ (đàng ngoài).
Tới năm 1670, có ‘công đồng chung’ đầu tiên tại Phố Hiến (hưng Yên), quy định chương trình mục vụ tổng quát, thành lập các giáo xứ đầu tiên, huấn luyện chủng sinh qua hệ thống ‘Nhà Đức Chúa Trời’, và chọn thánh Giu Se làm quan thày toàn quốc.
Nhà dòng ‘Mến thánh giá’ tiên khởi cũng đươc thánh lập năm đó để sát cánh cùng giáo sĩ gây dựng giáo hội non trẻ tại Việt Nam.
Trong năm 1679, tại đàng trong đã có hơn 70 ngàn giáo hữu. Chủng viện Saigon được thành lập năm 1861.
Ai cũng biết vào thời đầu, vua quan cấm đạo rất gắt : Có tới 130 ngàn tín hữu chịu chết vì đạo.
Rất may, đa số giáo dân đều can trường giữ vững đức tin, sẵn sàng đổ máu đào để trung thành với đạo thánh.
Thời điểm kế tiếp :
Dịp người Pháp chính thức đô hộ Việt Nam (1884, đời vua Tự Đức) là cơ hội buộc vua chúa chấm dứt chuyện cấm đạo (dù phong trào Văn Thân đã một thời nổi lên bách hại ghê gớm). Nhà thờ Đức Bà Sai gon được xây năm 1880.
Cha Trần Lục xây ‘nhà thờ đá’ Phát Diệm vào năm 1895.
Năm 1900, giáo hội phong chân phước lần đầu cho 64 vị tử đạo Việt Nam.
Rất nhiều dòng tu nam nữ được mời tới : La San, nữ tu thánh Phao lô, Nữ tử bác ái, Cát Minh, Dòng Chúa Cứu thế, Xuân Bích, Phan xi cô…..Dĩ nhiên tòa thánh cũng thành lập thêm nhiều giáo phận mới. Đặc biệt Việt Nam có vị khâm sứ tòa thánh (chung với Miên và Lào) đầu tiên vào năm 1925.
Biến cố lớn lao là ngày 11 tháng 6 năm 1933, Đức Thánh cha Pi-ô XI đã tấn phong vị giám mục người Việt tiên khởi là Đức cha JB Nguyễn bá Tòng, làm giám mục phó Phát Diệm., rồi 2 năm sau lên làm GM chính tòa.
Vì giám mục thứ hai gốc Việt là Đức cha Đa Minh Hồ ngọc Cẩn, từ năm 1935 làm phó giáo phận Bùi Chu. Rồi ngay năm sau lên cai quản giáo phận này.
Tại miền nam, giám mục Phê rô Ngô đình Thục được tấn phong làm giám mục Vĩnh Long năm 1938.
Năm 1940, giám mục JM Phan đình Phùng được phong chức GM phó Phát Diệm, nhưng sớm qua đời sau 1 năm. Thế là GM Tadeo Lê hữu Từ được phong chức lên thay thế.
Tới năm 1950, GM Giu se Trịnh như Khuê lên coi giáo phận Hà Nội. Rồi cũng năm đó, GM Đa Minh Hoàng văn Đoàn lên coi giáo phận Bắc Ninh, và GM Phê rô Phạm ngọc Chi tại Phát Diệm.
Trước cuộc di cư vĩ đại vào Nam năm 1954, còn có việc tấn phong các GM Vinh là JB Trần hữu Đức và GM Hải phòng Giu se Trương cao Đại.
Phụ chú : Cho tới nay có 6 hồng y người Việt là :
hồng y Giuse Trịnh Như Khuê (1976-1978),hồng y Giuse Trịnh Văn Căn (1979-1990),hồng y Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng (1994-2009),hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận (2001-2002),hồng y Gioan B. Phạm Minh Mẫn (2003-…)và hồng y Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (2015-…)
Tương Lai Giáo Hội Việt Nam :
Chúa quan phòng dẫn dắt và ban ơn mỗi ngày. Đó niềm tin căn bản cho từng thánh phần dân Chúa tại Việt Nam hôm nay.
Với hơn 7 triệu tín hữu Công giáo trong tổng số hơn 90 triệu dân cư, với 27 giáo phận và trên 8 ngàn linh mục, 15 ngàn tu sĩ nam nữ, gia đình dân Chúa đang cố vươn lên, vượt qua mọi thử thách lớn nhỏ, để giữ vững đức tin và chia sẻ tình thương Ky tô giáo cho mọi người.
Nhìn lại chặng đường từ năm 1659 có 2 giáo phận tiên khởi, cho tới năm 1960 được chính thức có hàng giáo phẩm (không còn là các giáo phận ‘Tông tòa’), ai nấy cùng chung niềm vui và nhắc bảo nhau về bổn phận tông đồ qua mọi hình thức sinh hoạt thường ngày.
Tất cả đều trông mong sự che chở và phù hộ của Đức Mẹ La Vang và thánh cả bổn mạng Giu se, để vững vàng dấn bước trên đường hành hương tiến về quê Trời.
==========================================================